A Tỳ Đàm - Lớp Zoom với Trung
www.tudieu.de

7 chi Thiền

Abhidhammapiṭaka
Dhammasaṅgaṇī
Cittuppādakaṇḍaṃ
Vi Diệu Pháp
Bộ Pháp Tụ
Chương Tâm Sanh
7. Katamo tasmiṃ samaye vitakko hoti? Yo tasmiṃ samaye takko vitakko saṅkappo appanā byappanā cetaso abhiniropanā sammāsaṅkappo – ayaṃ tasmiṃ samaye vitakko hoti. Thế nào là tầm trong khi ấy? Trong khi ấy, pháp là sự tìm cảnh, sự nghĩ ngợi, sự suy xét, sự chuyên chú, sự hướng tâm, sự đem tâm khắn khít cảnh, chánh tư duy. Ðây là tâm trong khi ấy.
8. Katamo tasmiṃ samaye vicāro hoti? Yo tasmiṃ samaye cāro vicāro anuvicāro upavicāro cittassa anusandhānatā anupekkhanatā – ayaṃ tasmiṃ samaye vicāro hoti. Thế nào là tứ trong khi ấy? Trong khi ấy, pháp là sự gìn giữ, sự giám sát, sự bám sát, sự chăm nom, trạng thái khắn khít, thái độ xem xét của tâm. Ðây là tứ trong khi ấy.
9. Katamā tasmiṃ samaye pīti hoti? Yā tasmiṃ samaye pīti pāmojjaṃ āmodanā pamodanā hāso pahāso vitti odagyaṃ attamanatā cittassa – ayaṃ tasmiṃ samaye pīti hoti. Thế nào là hỷ trong khi ấy? Trong khi ấy, pháp là sự mừng vui, sự no vui, sự hân hoan, sự hỷ duyệt, sự hài lòng, sự (rất) hài lòng, sự phấn khởi, sự thích thú, sự hoan hỷ của tâm. Ðây là hỷ trong khi ấy.
10. Katamaṃ tasmiṃ samaye sukhaṃ hoti? Yaṃ tasmiṃ samaye cetasikaṃ sātaṃ cetasikaṃ sukhaṃ cetosamphassajaṃ sātaṃ sukhaṃ vedayitaṃ cetosamphassajā sātā sukhā vedanā – idaṃ tasmiṃ samaye sukhaṃ hoti. Thế nào là lạc trong khi ấy? Trong khi ấy, pháp là sự sảng khoái thuộc về tâm, trạng thái cảm thọ sảng khoái, dễ chịu sanh từ tâm xúc, sự dễ chịu thuộc về tâm, sự cảm giác sảng khoái, dễ chịu sanh từ tâm xúc. Ðây là lạc trong khi ấy.
11. Katamā tasmiṃ samaye cittassekaggatā hoti? Yā tasmiṃ samaye cittassa ṭhiti saṇṭhiti avaṭṭhiti avisāhāro avikkhepo avisāhaṭamānasatā samatho samādhindriyaṃ samādhibalaṃ sammāsamādhi – ayaṃ tasmiṃ samaye cittassekaggatā hoti.Thế nào là nhất hành tâm trong khi ấy? Trong khi ấy, đối với tâm có pháp là sự đình trụ, sự vững trú, sự vững vàng, sự không tán loạn, sự không lao chao, tính cách tâm không xao xuyến, chỉ tịnh, định quyền, định lực, chánh định. Ðây là nhất hành tâm trong khi ấy.

Một cách nôm na, thiền là sự tập trung tư tưởng trên một đối tượng. Việc này cần đến sự kết hợp cùng lúc của năm thiền chi:
  1. Tầm (vitakka): Sự hướng tâm đến đối tượng.
  2. Tứ (vicāra): Sự kiểm sát đối tượng.
  3. Hỷ (pīti): Sự hứng thú đối với đối tượng.
  4. Thọ (vedanā): Có thể là Lạc thọ (sukha) hay Xả thọ (upekkhā) trong lúc tập trung trên đối tượng.
  5. Định (ekaggatā): Sự tập chú (samādhi) trên đối tượng.
Năm chi thiền này, là năm tâm sở, Tầm, Tứ, Hỷ, Thọ, Định (vitakka, vicāra, pīti, sukha, ekaggatā), nói trên bản chất thì ai cũng có thể có nhưng để chúng có đủ sức mạnh để trấn áp phiền não và đưa đến các tầng thiền thì đòi hỏi phải được trao dồi một cách đặc biệt thông qua pháp môn thiền Chỉ tịnh (samathabhāvanā).

Ngoài các chi thiền căn bản là Tầm, Tứ, Hỷ, Lạc, Định, Xả; có trường hợp kể thêm chi Ưu thọ (domanassavedanā). Nói vậy có nghĩa là chi thiền ở đây không chỉ là những yếu tố cho thiền định mà còn là yếu tố hỗ trợ cho tất cả các tâm thiện ác nói chung.

  1. Tầm
  2. Tứ
  3. Hỷ
  4. Lạc - Xả - Ưu Thọ

    (vedanācetasika):

    Sở hữu thọ là sự hứng chịu hay dụng nạp hưởng cảnh. Có Pāḷi chú giải như vầy:
    Vedayatīti = vedanā: Hưởng cảnh gọi là thọ.

    Ngũ thọ:

    1. thọ khổ (dukkhavedanā).
    2. thọ lạc (sukkhavedanā).
    3. thọ ưu (domanassavedanā).
    4. thọ hỷ (somanassavedanā).
    5. thọ xả (upekkhāvedanā).

    Tứ ý nghĩa (aṭṭha) của thọ khổ:

    1. trạng thái là hưởng cảnh xúc không tốt (aniṭṭhaphotthabānubhavanalakkhanaṃ), không thích hợp với thần kinh thân.
    2. phận sự là làm cho pháp tương ưng xào héo (sampayuttanaṃ nilāpanarasaṃ).
    3. thành tựu là thân đau đớn (kāyikābādhapaccupaṭṭhānaṃ).
    4. nhân cần thiết là có thần kinh thân (kāyindriyapadaṭṭhānaṃ).

    Tứ ý nghĩa (aṭṭha) của thọ lạc:

    1. trạng thái là hưởng cảnh xúc thích hợp (iṭṭhaphoṭṭhabbānubhavanalakkhanaṃ).
    2. phận sự là làm cho pháp tương ưng tiến triển (sampayuttānaṃ upabrūhanarasaṃ).
    3. thành tựu là thân sướng (kāyika assādapaccupaṭṭhānaṃ).
    4. nhân cần thiết là có thần kinh thân (kāyindriyapadaṭṭhānaṃ).

    Tứ ý nghĩa (aṭṭha) của thọ ưu:

    1. trạng thái là hưởng cảnh không ưa thích (aniṭṭhārammaṇānubhavanalakkhanaṃ).
    2. phận sự là hứng chịu cảnh không vừa lòng (aniṭṭhākārāsambhogarasaṃ).
    3. thành tựu là ép uổng tâm (cetasikābādhapaccupaṭṭhānaṃ).
    4. nhân cần thiết là vì có sắc tim (hadayavatthupadaṭṭhānaṃ).

    Tứ ý nghĩa (aṭṭha) của thọ hỷ:

    1. trạng thái là hưởng cảnh đáng mong mỏi (iṭṭhārammaṇānubhavanalakkhanaṃ).
    2. phận sự là hưởng cảnh vừa lòng (iṭṭhākārasambhogarasaṃ).
    3. thành tựu là tâm phơi phới (cetasika assādapaccupaṭṭhānaṃ).
    4. nhân cần thiết là thân tâm yên tịnh (passandhipadaṭṭhānaṃ).

    Tứ ý nghĩa (aṭṭha) của thọ xả:

    1. trạng thái là hưởng cảnh trung bình (majjhattavedayitalakkhanā).
    2. phận sự là điều hòa pháp tương ưng (sampayuttānaṃ nātiupabrūhananilāpanarasā).
    3. thành tựu là vắng lặng (santabhāvapaccupaṭṭhānā).
    4. nhân cần thiết là ly pháp hỷ (nippītikapadaṭṭhānā).

    Thọ (vedanā): Là những cảm giác tích cực hay tiêu cực khi các căn biết các cảnh. Chữ vedanā xuất xứ từ ngữ căn √Vid có nghĩa là biết hay cảm nghiệm, chữ Vijjā (Minh) cũng từ ngữ căn này mà ra. Tâm sở Thọ chính là Thọ uẩn (vedanakhandha) trong Ngũ uẩn (pañcakhandha). Nó được xem là quan trọng vì không một giây phút nào trong đời sống chúng sinh lại thiếu đi cái gọi là cảm giác. Trong giáo lý Duyên Khởi (paṭiccasamuppāda), ngay khi các Căn tiếp xúc các Trần thì Thọ lập tức có mặt và chính nó là duyên khởi cho Tham Ái (taṇhā) xuất hiện. Nói vậy, vòng tròn luân hồi không thể thiếu mắt xích cảm thọ.

    Thọ uẩn (vedanā-upādānakhandha) là tâm sở Thọ.

    Lạc thọ luôn đi với tâm Thân thức thọ lạc.

    Xả thọ đi với 55 tâm gồm 32 tâm Dục giới xả thọ, 15 tâm Đáo đại xả thọ và 8 tâm Siêu thế xả thọ.

    Ưu thọ luôn đi với 2 tâm sân.




    Abhidhammapiṭaka - Dhammasaṅgaṇī - Cittuppādakaṇḍaṃ
    10. Katamaṃ tasmiṃ samaye sukhaṃ hoti? Yaṃ tasmiṃ samaye cetasikaṃ sātaṃ cetasikaṃ sukhaṃ cetosamphassajaṃ sātaṃ sukhaṃ vedayitaṃ cetosamphassajā sātā sukhā vedanā – idaṃ tasmiṃ samaye sukhaṃ hoti.
    ...
    153. Katamā tasmiṃ samaye upekkhā hoti? Yaṃ tasmiṃ samaye cetasikaṃ neva sātaṃ nāsātaṃ cetosamphassajaṃ adukkhamasukhaṃ vedayitaṃ cetosamphassajā adukkhamasukhā vedanā – ayaṃ tasmiṃ samaye upekkhā hoti.
    ...
    417. Katamaṃ tasmiṃ samaye domanassindriyaṃ hoti? Yaṃ tasmiṃ samaye cetasikaṃ asātaṃ cetasikaṃ dukkhaṃ cetosamphassajaṃ asātaṃ dukkhaṃ vedayitaṃ cetosamphassajā asātā dukkhā vedanā – idaṃ tasmiṃ samaye domanassindriyaṃ hoti.

    Vi Diệu Pháp - Pháp Tụ - Chương Tâm Sanh
    Thế nào là lạc trong khi ấy? Trong khi ấy, pháp là sự sảng khoái thuộc về tâm, trạng thái cảm thọ sảng khoái, dễ chịu sanh từ tâm xúc, sự dễ chịu thuộc về tâm, sự cảm giác sảng khoái, dễ chịu sanh từ tâm xúc. Ðây là lạc trong khi ấy.
    ...
    Thế nào là xả trong khi ấy? Trong khi ấy, pháp là sự không vui không buồn thuộc về tâm, cách cảm thọ không khổ không lạc sanh từ tâm xúc, sự cảm giác không khổ không lạc từ tâm xúc. Ðây là xả trong khi ấy.
    ...
    Thế nào là ưu quyền trong khi ấy? Trong khi ấy, có pháp là sự không sảng khoái thuộc về tâm, sự khó chịu thuộc về tâm, trạng thái cảm thọ không sảng khoái, khó chịu sanh từ tâm xúc, sự cảm giác không sảng khoái, khó chịu sanh từ tâm xúc. Ðây là ưu quyền trong khi ấy.




  5. Định - Nhất Hành

Tài liệu:
  1. Bản giải Siêu Lý Tiểu học (TL Tịnh Sự);
  2. Triết học A Tỳ Đàm (TK Giác Nguyên);
  3. Vi Diệu Pháp Sơ Cấp (TK Giác Giới)
  4. tipitaka.org
  5. budsas.net


Abhidhammatthasaṅgaho
Cittaparicchedo
Rūpāvacaracittaṃ
Thắng pháp tập yếu
Tâm Vương
5 Sắc giới thiện tâm
21. Vitakkavicārapītisukhekaggatāsahitaṃ
paṭhamajjhānakusalacittaṃ
Ðệ nhứt thiền thiện tâm
câu hữu với tầm, tứ, hỷ, lạc và nhứt tâm.
Vicārapītisukhekaggatāsahitaṃ
dutiyajjhānakusalacittaṃ
Ðệ nhị thiền thiện tâm
câu hữu với tứ, hỷ, lạc và nhứt tâm.
Pītisukhekaggatāsahitaṃ
tatiyajjhānakusalacittaṃ
Ðệ tam thiền thiện tâm
câu hữu với hỷ, lạc và nhứt tâm.
Sukhekaggatāsahitaṃ
catutthajjhānakusalacittaṃ
Ðệ tứ thiền thiện tâm
câu hữu với lạc và nhứt tâm.
Upekkhekaggatāsahitaṃ
pañcamajjhānakusalacittaṃ.
Ðệ ngũ thiền thiện tâm
câu hữu với xả và nhất tâm.


Saṃyuttanikāya - V. Mahāvagga - 9. jhānasaṃyuttaṃ Kinh Tương Ưng - V. Đại phẩm - 9. Tương Ưng Thiền
‘‘Cattāro me, bhikkhave, jhānā. Katame cattāro? Idha, bhikkhave, bhikkhu Này các Tỷ-kheo, có bốn Thiền này. Thế nào là bốn? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
Civicceva kāmehi vivicca akusalehi dhammehi savitakkaṃ savicāraṃ vivekajaṃ pītisukhaṃ paṭhamaṃ jhānaṃ upasampajja viharati. Ly dục, ly các pháp bất thiện, chứng đạt và an trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ.
Vitakkavicārānaṃ vūpasamā ajjhattaṃ sampasādanaṃ cetaso ekodibhāvaṃ avitakkaṃ avicāraṃ samādhijaṃ pītisukhaṃ dutiyaṃ jhānaṃ upasampajja viharati. Làm tịnh chỉ tầm và tứ, chứng đạt và an trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh, nhứt tâm.
Pītiyā ca virāgā upekkhako ca viharati sato ca sampajāno sukhañca kāyena paṭisaṃvedeti, yaṃ taṃ ariyā ācikkhanti – ‘upekkhako satimā sukhavihārī’ti tatiyaṃ jhānaṃ upasampajja viharati. Ly hỷ, trú xả, chánh niệm, tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng đạt và an trú Thiền thứ ba.
Sukhassa ca pahānā dukkhassa ca pahānā pubbeva somanassadomanassānaṃ atthaṅgamā adukkhamasukhaṃ upekkhāsatipārisuddhiṃ catutthaṃ jhānaṃ upasampajja viharati. Ðoạn lạc, đoạn khổ, chấm dứt hỷ ưu đã cảm thọ từ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh.
Ime kho, bhikkhave, cattāro jhānā’’ti.Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là bốn Thiền.

Dīghanikāya - Sāmaññaphalasutta Trường Bộ Kinh - Kinh Sa-môn quả
Paṭhamajjhānaṃ Sơ Thiền
225. ‘‘Tassime pañca nīvaraṇe pahīne attani samanupassato pāmojjaṃ jāyati, pamuditassa pīti jāyati, pītimanassa kāyo passambhati, passaddhakāyo sukhaṃ vedeti, sukhino cittaṃ samādhiyati. 75. Khi quán tự thân đã xả ly năm triền cái ấy, hân hoan sanh; do hân hoan nên hỷ sanh; do tâm hoan hỷ, thân được khinh an; do thân khinh an, lạc thọ sanh; do lạc thọ, tâm được định tĩnh.
226. ‘‘So vivicceva kāmehi, vivicca akusalehi dhammehi savitakkaṃ savicāraṃ vivekajaṃ pītisukhaṃ paṭhamaṃ jhānaṃ upasampajja viharati. So imameva kāyaṃ vivekajena pītisukhena abhisandeti parisandeti paripūreti parippharati, nāssa kiñci sabbāvato kāyassa vivekajena pītisukhena apphuṭaṃ hoti. Tỷ-kheo ly dục, ly ác pháp, chứng và trú thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm, với tứ. Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân mình với hỷ lạc do ly dục sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần.
227. ‘‘Seyyathāpi , mahārāja, dakkho nhāpako vā nhāpakantevāsī vā kaṃsathāle nhānīyacuṇṇāni ākiritvā udakena paripphosakaṃ paripphosakaṃ sanneyya, sāyaṃ nhānīyapiṇḍi snehānugatā snehaparetā santarabāhirā phuṭā snehena, na ca paggharaṇī; evameva kho, mahārāja, bhikkhu imameva kāyaṃ vivekajena pītisukhena abhisandeti parisandeti paripūreti parippharati, nāssa kiñci sabbāvato kāyassa vivekajena pītisukhena apphuṭaṃ hoti. 76. Này Ðại vương, như một người hầu tắm lão luyện hay đệ tử người hầu tắm. Sau khi rắc bột tắm trong thau bằng đồng, liền nhồi bột ấy với nước, cục bột tắm ấy được thấm nhuần nước ướt, nhào trộn với nước ướt, thấm ướt cả trong lẫn ngoài với nước, nhưng không chảy thành giọt. Cũng vậy, này Ðại vương, Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân hình với hỷ lạc do ly dục sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần.
Idampi kho, mahārāja, sandiṭṭhikaṃ sāmaññaphalaṃ purimehi sandiṭṭhikehi sāmaññaphalehi abhikkantatarañca paṇītatarañca. Này Ðại vương, đó là quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn, còn vi diệu thù thắng hơn những quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn trước.
Dutiyajjhānaṃ Nhị Thiền
228. ‘‘Puna caparaṃ, mahārāja, bhikkhu vitakkavicārānaṃ vūpasamā ajjhattaṃ sampasādanaṃ cetaso ekodibhāvaṃ avitakkaṃ avicāraṃ samādhijaṃ pītisukhaṃ dutiyaṃ jhānaṃ upasampajja viharati. So imameva kāyaṃ samādhijena pītisukhena abhisandeti parisandeti paripūreti parippharati, nāssa kiñci sabbāvato kāyassa samādhijena pītisukhena apphuṭaṃ hoti. 77. Lại nữa, này Ðại vương, Tỷ-kheo ấy diệt tầm và tứ, chứng và trú thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm Tỷ-kheo ấy thấm nhuần, tẩm ướt làm cho sung mãn, tràn đầy thân mình với hỷ lạc do định sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do định sanh ấy thấm nhuần.
229. ‘‘Seyyathāpi, mahārāja, udakarahado gambhīro ubbhidodako tassa nevassa puratthimāya disāya udakassa āyamukhaṃ, na dakkhiṇāya disāya udakassa āyamukhaṃ, na pacchimāya disāya udakassa āyamukhaṃ, na uttarāya disāya udakassa āyamukhaṃ, devo ca na kālenakālaṃ sammādhāraṃ anuppaveccheyya. Atha kho tamhāva udakarahadā sītā vāridhārā ubbhijjitvā tameva udakarahadaṃ sītena vārinā abhisandeyya parisandeyya paripūreyya paripphareyya, nāssa kiñci sabbāvato udakarahadassa sītena vārinā apphuṭaṃ assa. 78. Này Ðại vương, ví như một hồ nước, nước tự trong dâng lên, phương Ðông không có lỗ nước chảy ra, phương Tây không có lỗ nước chảy ra, phương Bắc không có lỗ nước chảy ra, phương Nam không có lỗ nước chảy ra, và thỉnh thoảng trời lại mưa lớn. Suối nước mát từ hồ nước ấy phun ra thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn tràn đầy hồ nước ấy, với nước mát lạnh, không một chỗ nào của hồ nước ấy không được nước mát lạnh thấm nhuần.
Evameva kho, mahārāja, bhikkhu imameva kāyaṃ samādhijena pītisukhena abhisandeti parisandeti paripūreti parippharati, nāssa kiñci sabbāvato kāyassa samādhijena pītisukhena apphuṭaṃ hoti. Cũng vậy, này Ðại vương, Tỷ-kheo thấm nhuần tẩm ướt, làm cho sung mãn tràn đầy thân mình với hỷ lạc do định sanh, không một chỗ nào trên toàn thân, không được hỷ lạc do định sanh ấy thấm nhuần.
Idampi kho, mahārāja, sandiṭṭhikaṃ sāmaññaphalaṃ purimehi sandiṭṭhikehi sāmaññaphalehi abhikkantatarañca paṇītatarañca. Này Ðại vương, đó là quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn, còn vi diệu thù thắng hơn những quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn trước.
Tatiyajjhānaṃ Tam Thiền
230. ‘‘Puna caparaṃ, mahārāja, bhikkhu pītiyā ca virāgā upekkhako ca viharati sato sampajāno, sukhañca kāyena paṭisaṃvedeti, yaṃ taṃ ariyā ācikkhanti – ‘upekkhako satimā sukhavihārī’ti, tatiyaṃ jhānaṃ upasampajja viharati. So imameva kāyaṃ nippītikena sukhena abhisandeti parisandeti paripūreti parippharati, nāssa kiñci sabbāvato kāyassa nippītikena sukhena apphuṭaṃ hoti. 79. Lại nữa, này Ðại vương, Tỷ-kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là "Xả niệm lạc trú", chứng và an trú thiền thứ ba. Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn tràn đầy thân mình với lạc thọ không có hỷ ấy, không một chỗ nào trên toàn thân, không được lạc thọ không có hỷ ấy thấm nhuần.
231. ‘‘Seyyathāpi, mahārāja, uppaliniyaṃ vā paduminiyaṃ vā puṇḍarīkiniyaṃ vā appekaccāni uppalāni vā padumāni vā puṇḍarīkāni vā udake jātāni udake saṃvaḍḍhāni udakānuggatāni antonimuggaposīni, tāni yāva caggā yāva ca mūlā sītena vārinā abhisannāni parisannāni [abhisandāni parisandāni (ka.)] paripūrāni paripphuṭāni [paripphuṭṭhāni (pī.)], nāssa kiñci sabbāvataṃ uppalānaṃ vā padumānaṃ vā puṇḍarīkānaṃ vā sītena vārinā apphuṭaṃ assa. 80. Này Ðại vương, ví như trong hồ sen xanh, hồ sen hồng, hồ sen trắng, có những sen xanh, sen hồng hay sen trắng. Những bông sen ấy sanh trong nước, lớn lên trong nước, không vượt khỏi nước, nuôi sống dưới nước, từ đầu ngọn cho đến gốc rễ đều thấm nhuần tẩm ướt, đầy tràn thấu suốt bởi nước mát lạnh ấy, không một chỗ nào của toàn thể sen xanh, sen hồng hay sen trắng không được nước mát lạnh ấy thấm nhuần.
Evameva kho, mahārāja, bhikkhu imameva kāyaṃ nippītikena sukhena abhisandeti parisandeti paripūreti parippharati, nāssa kiñci sabbāvato kāyassa nippītikena sukhena apphuṭaṃ hoti. Cũng vậy, này Ðại vương Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân mình với lạc thọ không có hỷ ấy, không một chỗ nào trên toàn thân không được lạc thọ không có hỷ ấy thấm nhuần.
Idampi kho, mahārāja, sandiṭṭhikaṃ sāmaññaphalaṃ purimehi sandiṭṭhikehi sāmaññaphalehi abhikkantatarañca paṇītatarañca. Này Ðại vương, đó là quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn, còn vi diệu thù thắng hơn những quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn trước.
Catutthajjhānaṃ Tứ Thiền
232. ‘‘Puna caparaṃ, mahārāja, bhikkhu sukhassa ca pahānā dukkhassa ca pahānā, pubbeva somanassadomanassānaṃ atthaṅgamā adukkhamasukhaṃ upekkhāsatipārisuddhiṃ catutthaṃ jhānaṃ upasampajja viharati, so imameva kāyaṃ parisuddhena cetasā pariyodātena pharitvā nisinno hoti, nāssa kiñci sabbāvato kāyassa parisuddhena cetasā pariyodātena apphuṭaṃ hoti. 81. Lại nữa, này Ðại vương, Tỷ-kheo, xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú vào thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Tỷ-kheo ấy thấm nhuần toàn thân mình với tâm thuần tịnh trong sáng, không một chỗ nào trên toàn thân không được tâm thuần tịnh trong sáng ấy thấm nhuần.
233. ‘‘Seyyathāpi , mahārāja, puriso odātena vatthena sasīsaṃ pārupitvā nisinno assa, nāssa kiñci sabbāvato kāyassa odātena vatthena apphuṭaṃ assa. 82. Này Ðại vương, ví như một người ngồi, dùng tấm vải trắng trùm đầu, không một chỗ nào trên toàn thân không được vải trắng ấy che thấu.
Evameva kho, mahārāja, bhikkhu imameva kāyaṃ parisuddhena cetasā pariyodātena pharitvā nisinno hoti, nāssa kiñci sabbāvato kāyassa parisuddhena cetasā pariyodātena apphuṭaṃ hoti. Cũng vậy, này Ðại vương, Tỷ-kheo thấm nhuần toàn thân mình với tâm thuần tịnh, trong sáng, không một chỗ nào trên toàn thân không được tâm thuần tịnh trong sáng ấy thấm nhuần.
Idampi kho, mahārāja, sandiṭṭhikaṃ sāmaññaphalaṃ purimehi sandiṭṭhikehi sāmaññaphalehi abhikkantatarañca paṇītatarañca.Này Ðại vương, đó là quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn, còn vi diệu, thù thắng hơn những quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn trước.


A Tỳ Đàm - Lớp Zoom với Trung

© www.tudieu.de